Vì sao sau ngày 30/4/1975, vấn đề thống nhất về mặt nhà nước lại được đặt ra một cách cấp bách? Phân tích chủ trương và biện pháp của Đảng ta trong việc giải quyết yêu cầu trên?
Bài tham khảo 1:
Sau chiến thắng lịch sử mùa Xuân năm 1975, nước nhà thống nhất,
nhân dân cả nước ta hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình, lẽ ra có điều kiện tập
trung toàn lực vào công cuộc lao động hoà bình, xây dựng đất nước, khắc phục
hậu quả của chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, từng bước cải thiện
đời sống. Nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của nhân dân ta sau ba chục năm
chiến tranh là sống hoà bình, hạnh phúc trong độc lập, tự do.
Nhưng bọn... phản động ... đã công khai và điên cuồng chống Việt
Nam trong khi nhân dân Việt Nam chưa kịp băng bó xong những vết thương chiến
tranh, lại gặp thiên tai lớn trong ba năm liền.
Trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta đã phấn đấu rất kiên cường và giành được thắng lợi to lớn.
Quân và dân ta đã đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược ...,
giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đồng thời làm
tròn nghĩa vụ quốc tế của mình đối với cách mạng hai nước Campuchia và Lào.
Cách mạng ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia có thế và lực mới; tình đoàn kết
chiến đấu giữa ba nước được củng cố hơn bao giờ hết... Nhiều mưu mô thâm độc
của bọn phản động... hòng làm giảm uy tín và cô lập nước ta trên trường quốc tế
đã bị thất bại. Với Hiệp ước hoà bình hữu nghị và hợp tác Việt - Xô, tình đoàn
kết giữa nước ta và Liên Xô được tăng cường. Quan hệ hữu nghị hợp tác giữa nước
ta với các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng ngày thêm củng cố và phát triển.
Quan hệ ngoại giao và kinh tế của nước ta đang mở rộng với nhiều nước trên thế
giới. Thắng lợi của nhân dân ta đã trực tiếp góp phần tích cực bảo vệ và phát
triển ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh phong trào độc lập dân tộc, bảo
vệ hoà bình ở Đông Nam châu á, và góp phần quan trọng vào thế tiến công của ba
dòng thác cách mạng trên thế giới.
Mặc dầu có những khó khăn lớn và những thử thách mới, nhân dân ta
cũng đã thu được những thành tựu quan trọng trong việc hàn gắn những vết thương
chiến tranh, chống thiên tai, khôi phục sản xuất, bảo đảm yêu cầu tối thiểu của
đời sống và xây dựng thêm một số công trình kinh tế.
... Sự thật đã chứng minh rằng nhân dân lao động nước ta, từ Bắc
đến Nam, rất giàu lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, Đảng ta thật sự là một
Đảng Mác - Lênin vững mạnh.
Thắng lợi của cách mạng nước ta thật là to lớn, đồng thời những
khó khăn mà ta phải vượt qua cũng rất gay gắt. Chính vì vậy, về tư tưởng và tâm
lý đang có trạng thái vừa tự hào, tin tưởng, vừa băn khoăn, lo lắng; bên cạnh
số đông đảng viên và nhân dân có tinh thần kiên định, phấn đấu vươn lên, nêu
cao phẩm chất cách mạng, cũng có những biểu hiện dao động, bi quan, hoài nghi,
sa sút ý chí phấn đấu.
Chúng ta đang đứng trước nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống:
sản xuất phát triển chậm, năng suất thấp, đời sống thiếu thốn, nhất là đời sống
của những người ăn lương ở thành thị và các khu công nghiệp; nhiều hiện tượng
tiêu cực trong xã hội có tính nghiêm trọng. Điều cần đặc biệt quan tâm là người
lao động sản xuất thiếu hăng hái sản xuất, bọn làm ăn bất chính và phi pháp vẫn
ngang nhiên hoạt động. Kẻ địch đang lợi dụng tình hình kinh tế và đời sống khó
khăn để phá rối ta trên nhiều mặt sản xuất và thị trường, tâm lý và dư luận,
trong nước và ngoài nước.
Những khó khăn về kinh tế và đời sống một mặt do những nguyên nhân
khách quan, mặt khác, do những khuyết điểm chủ quan, nhất là trong công tác
kinh tế. Các cấp, các ngành chưa quán triệt sâu sắc đường lối kinh tế đã xác
định ở Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng; do đó, trong việc vận dụng đường
lối, đã có những khuyết điểm về kế hoạch hoá, về xây dựng chính sách cụ thể, về
các biện pháp tổ chức và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Việc xây dựng kế
hoạch kinh tế vẫn tập trung quan liêu, thiếu căn cứ thực tế và khoa học, chưa
kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá với sử dụng thị trường, chưa chú ý đầy đủ tăng cường
và phát huy kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, và cũng chưa chú ý sử dụng
đúng đắn các thành phần kinh tế cá thể và tư sản dân tộc (ở miền Nam). Chậm
khắc phục tình trạng trì trệ, bảo thủ trong việc xây dựng các chính sách cụ thể
về kinh tế, tài chính để khuyến khích phát triển sản xuất. Những khuyết điểm vi
phạm quyền làm chủ tập thể của quần chúng vẫn chưa được sửa chữa kiên quyết. Có
những biểu hiện nóng vội, giản đơn trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa ở
miền Nam.
Trước tình hình mới, toàn Đảng và toàn dân ta phải nâng cao hơn
nữa lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát
huy những thuận lợi và ưu điểm, ra sức sửa chữa khuyết điểm, tạo nên một chuyển
biến lớn trong tình hình sản xuất và đời sống, đưa sự nghiệp cách mạng tiến
lên, giành những thắng lợi to lớn hơn nữa.
Nhiệm
vụ cấp bách trước mắt
Hiện nay, nước ta vừa có hoà bình, vừa có thể xảy ra chiến tranh
...
Tình
hình kinh tế và đời sống nhân dân đang có nhiều khó khăn, Đảng và Nhà nước ta
phải có những chủ trương và biện pháp cấp bách, mạnh mẽ, kiên quyết, đem lại
hiệu quả thiết thực nhằm đẩy mạnh sản xuất, ổn định và bảo đảm đời
sống nhân dân, khắc phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã
hội, đồng thời ra sức củng cố quốc phòng, giữ vững trật tự an
ninh, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp
tục thi hành những nhiệm vụ chung do các Hội nghị lần thứ tư và thứ năm của
Trung ương đã đề ra, từ nay đến năm 1981, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
phải tập trung sức thực hiện ba nhiệm vụ cấp bách:
Một
là, đẩy mạnh sản xuất, ổn
định và bảo đảm đời sống của nhân dân.
Hai
là, tăng cường quốc phòng và
an ninh, sẵn sàng chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc.
Ba
là, kiên quyết đấu tranh khắc
phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã hội, nhất là tệ ăn cắp,
hối lộ, ức hiếp quần chúng.
Để
thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cấp bách kể trên, phải quán triệt sâu sắc
đường lối đã xác định ở Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng, sửa chữa những
sai lầm, thiếu sót về tổ chức và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Phải làm khẩn
trương và làm thật tốt những công tác dưới đây:
1. Đẩy
mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu
Nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay là động viên cao độ và tổ chức
toàn dân, toàn quân đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp, nhằm trước hết bảo đảm vững chắc lương thực và thực
phẩm, đồng thời cung ứng nhiều nguyên liệu cho công nghiệp
thực phẩm, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và tăng nhanh nguồn hàng xuất
khẩu.
Các ngành thủy lợi, cơ khí, điện, than, hoá chất, giao thông vận
tải, vật tư, nội thương, ngoại thương, tài chính, ngân hàng... phải tích cực
phục vụ nông nghiệp, bảo đảm thủy lợi, sức kéo, phụ tùng, nhiên liệu, công cụ
lao động, phân bón, thuốc trừ sâu, vật liệu xây dựng, hàng công nghiệp tiêu
dùng thiết yếu. Các lực lượng vũ trang trên các địa bàn vừa phải sẵn sàng chiến
đấu tốt, vừa phải tận dụng mọi khả năng để tham gia sản xuất lương thực, thực
phẩm theo kế hoạch của trung ương và địa phương.
Ra
sức đẩy mạnh sản xuất lúa bằng thâm canh, tăng vụ và sử
dụng hết diện tích, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng
sông Hồng. Tập trung đầu tư về thủy lợi, phân bón, thuốc trừ sâu, sức kéo để
đưa năng suất lên nhanh ở những vùng có khối lượng lớn về lương thực. Phải hết
sức đẩy mạnh sản xuất vụ đông ở các tỉnh miền Bắc, mở rộng diện tích trồng các
loại màu ở Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, vùng đồi núi miền
Trung và miền Bắc. ở tất cả các vùng, phải rất coi trọng việc phát triển các
loại rau, đậu, các loại cây códầu và có đường thích
hợp.
Thủ
đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các thành phố khác và các khu công nghiệp
phải xây dựng nhanh các vành đai thực phẩm (chăn nuôi, trồng
rau) để bảo đảm giải quyết một phần quan trọng nhu cầu về thực phẩm.
Mỗi tỉnh, huyện phải cố gắng đến mức cao nhất để cân đối lương
thực trong địa phương mình, đồng thời làm tốt nghĩa vụ đóng góp với cả nước.
Cùng
với việc đẩy mạnh sản xuất lương thực trong nước, phải phát huy ưu thế
của ta về cây công nghiệp, lâm sản, hải sản, ra sức tạo
nguồn xuất khẩu để nhập cho được một khối lượng lương thực ổn định.
Đặc biệt chú ý phát triển các loại cây công nghiệp và cây ăn quảcó
thể xuất khẩu với khối lượng lớn, như cà phê, chè, cao su, thuốc lá, dâu tằm,
đay, cói, dừa, chuối, dứa v.v., và các loại hải sản (tôm, cá
v.v.).
Phải
khẩn trương khai hoang mở rộng diện tích, nhất là ở đồng
bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên, nhưng phải chuẩn bị chu đáo, làm đến đâu chắc
đến đó và đạt hiệu quả thiết thực. Kịp thời kiểm điểm, rút kinh nghiệm việc
khai hoang xây dựng các vùng kinh tế mới để xúc tiến công tác này được tốt hơn.
Chính
phủ cần ban hành các chính sách khuyến khích mạnh mẽ sản xuất nông
nghiệp. Cụ thể là:
- ổn
định mức nghĩa vụ bán lương thực trong 5 năm; phần còn lại bán cho
Nhà nước với giá thoả thuận và được lưu thông tự do. Mức ổn định phải định cho
sát, đúng để động viên nông dân phấn khởi sản xuất, đồng thời chú ý đến nhu cầu
của cả nước. Đối với các loại nông sản khác cũng ổn định mức nghĩa vụ bán cho
Nhà nước thích hợp với từng loại.
-
Khuyến khích các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và cả gia đình xã viên, nông dân
cá thể tận dụng diện tích ruộng đất, hồ, ao còn bỏ hoang
hoặc bỏ hoá.
- Khuyến khích các cơ sở quốc doanh, tập thể và gia đình đẩy
mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đối với khu vực tập thể và gia đình,
cần ổn định mức bán thịt lợn; phần còn lại được bán cho Nhà nước với giá thoả
thuận hoặc lưu thông tự do.
- Sửa
lại biểu thuế nông nghiệp nhằm khuyến khích thâm canh, tăng vụ, mở
rộng diện tích. Ngoài biểu thuế của Nhà nước, nghiêm cấm các địa phương tự tiện
đặt ra các thứ thuế.
- Sửa
lại giá lương thực và giá các nông sản khác cho hợp lý để khuyến
khích sản xuất và mở rộng nguồn thu mua của Nhà nước.
- Khuyến
khích xuất khẩu nông sản của các địa phương và cơ sở sản xuất.
-
Sửa đổi cách phân phối, ăn chia trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bảo
đảm nguyên tắc phân phối theo lao động, bỏ lối phân phối theo định suất, định
lượng không khuyến khích tính tích cực của quần chúng. Nghiêm cấm các quỹ và
mọi sự quyên góp trái phép. Định quỹ không chia của các hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp cho hợp lý.
-
Phải có kế hoạch củng cố các hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc, gắn
việc củng cố hợp tác xã với xây dựng huyện, tăng cường cán bộ quản lý và cán bộ
kỹ thuật, nghiệp vụ. Quy mô của hợp tác xã cần giữ ổn định trong một số năm và
không nên quá lớn, vượt quá khả năng quản lý của cán bộ và trình độ về cơ sở
vật chất - kỹ thuật. Đối với những hợp tác xã quá lớn, quản lý không tốt thì
tỉnh uỷ xem xét kỹ, có thể tổ chức lại cho hợp lý.
Gấp
rút chấn chỉnh công tác quản lý của hợp tác xã, phổ biến kinh nghiệm của các
hợp tác xã tiên tiến, phát huy hiệu quả kinh tế của lao động, đất đai và phương
tiện sản xuất, làm cho người nông dân xã viên thật gắn bó với kinh tế tập thể,
lao động đạt năng suất cao, thu nhập của kinh tế tập thể cũng như kinh tế gia
đình ngày càng tăng.
Trong
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở miền Nam, phải
nắm vững phương châm tích cực và vững chắc, hiện
nay phải nhấn mạnh vững chắc. ở những nơi đã có hợp tác xã hoặc tập đoàn sản
xuất, phải kịp thời củng cố. Tổ chức nông dân vào hợp tác xã
hoặc tập đoàn sản xuất, phải theo đúng ba nguyên tắc: tự nguyện, cùng
có lợi và quản lý dân chủ. ở những nơi chưa tổ chức nông dân sản xuất
tập thể, phải chuẩn bị kỹ các điều kiện cần thiết, nhất là đội ngũ cán bộ quản
lý ở cơ sở, đưa nông dân từ những hình thức vần công, đổi công, tổ đoàn kết sản
xuất lên hình thức tập đoàn sản xuất và hợp tác xã; chống tư tưởng chủ quan,
nóng vội, cưỡng ép mệnh lệnh, làm ồ ạt, gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống
nhân dân.
- Đẩy
mạnh khai thác thủy sản, hải sản để giải quyết thực phẩm cho nhân
dân. Củng cố các đoàn tàu quốc doanh đánh cá, củng cố các hợp tác xã nghề cá ở
miền Bắc, tổ chức lại nghề cá ở miền Nam một cách thích hợp, tích cực và vững
chắc, chỉnh đốn việc cung ứng nhiên liệu, vật tư, hàng hoá cho các hợp tác xã
và người đánh cá. Sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ, ngư dân có thể bán phần hải
sản còn lại cho Nhà nước với giá thoả thuận hoặc được lưu thông tự do. Sửa đổi
giá Nhà nước mua cá cho hợp lý. Triển khai nhanh việc hợp tác đánh cá với Liên
Xô, Ba Lan, Cộng hoà Dân chủ Đức.
- Về
nghề rừng, phải gấp rút chấn chỉnh và cải tiến tổ chức quản lý trong
ngành lâm nghiệp, củng cố lâm trường quốc doanh và hợp tác xã nghề rừng. Kiên
quyết ngăn chặn nạn phá rừng và cháy rừng, nhất là rừng đầu nguồn, xúc tiến
công tác trồng cây gây rừng. Tổ chức tốt công tác khai thác gỗ, phân phối gỗ và
vận chuyển gỗ để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu; ban hành chính sách
khuyến khích khai thác, sử dụng gỗ cành, ngọn.
-
Đặc biệt tăng cường chỉ đạo các ngành than, điện, giao thông vận tải. Hết
sức khắc phục khó khăn về gỗ chống lò, thuốc nổ, phụ tùng, thiết bị v.v., để
đẩy mạnh sản xuất than, bảo đảm dự trữ đủ than cho giao thông đường sắt và cho
các nhà máy, nhất là các nhà máy điện. Phải có kế hoạch và biện pháp bảo đảm
nguồn điện liên tục trong mọi tình huống. Chuẩn bị phương án dự phòng về điện
trong trường hợp xảy ra chiến tranh.
Kiểm
điểm và chấn chỉnh gấp công tác giao thông vận tải, cả đường sắt, đường bộ,
đường biển, đường sông và hàng không dân dụng. Trước hết, phải tập trung sức
chấn chỉnh cho được tổ chức và quản lý cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn và
cảng Đà Nẵng để tăng năng lực bốc dỡ, giải phóng tàu nhanh, loại trừ
tệ ăn cắp và những hành động có tính chất phá hoại.
Tất
cả các ngành công nghiệp phải tiến hành khẩn trương việc kiểm kê trong
từng n hà máy, từng địa phương,
từng cơ quan, nắm toàn bộ lao động, vật tư, thiết bị hiện có trong ngành, từ đó
có kế hoạch sử dụng tốt, triệt để phát huy mọi năng lực sản xuất, nâng cao năng
suất lao động, phát triển sản xuất.
-
Chỉ đạo chặt chẽ và khẩn trương việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương
lần này về phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp địa
phương, khuyến khích phát triển tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp. Bỏ
thuế lợi tức vượt cấp.
-
Các ngành và các địa phương phải phấn đấu rất cao để đẩy mạnh xuất
khẩu, tăng cường đầu tư, mở rộng các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu,
nhất là những mặt hàng ta có thế mạnh: nông sản nhiệt đới (cao su, cà phê, chè,
thuốc lá, dứa, chuối và sản phẩm chăn nuôi...), hải sản (tôm, cá), lâm sản (gỗ,
nhựa thông...), cây dược liệu, khoáng sản và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ
truyền thống (mây tre đan, thêu, đan len, sơn mài, đồ mỹ nghệ bằng sừng, đồi
mồi, vàng, bạc...). Phát triển hình thức hợp tác gia công với Liên Xô, các nước
xã hội chủ nghĩa anh em và các nước khác.
Chính phủ cần bổ sung các chính sách cụ thể khuyến khích sản xuất,
kinh doanh các mặt hàng xuất khẩu; cho phép các liên hiệp xí nghiệp, công ty
của các ngành sản xuất và công ty xuất khẩu của địa phương (tỉnh, thành phố)
được giao dịch thẳng và ký kết hợp đồng với các công ty nước ngoài theo kế
hoạch của Nhà nước, dưới sự hướng dẫn của Bộ Ngoại thương.
Trong
việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, trước hết phải thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ và trách nhiệm của ta trong việc hợp tác kinh tế với Hội đồng Tương
trợ kinh tế (SEV). Đối với những công trình hợp tác với Liên Xô, các
nước xã hội chủ nghĩa anh em và các nước khác, phải thực hiện nghiêm túc những
điều ta đã ký kết và phải cố gắng học tập để nâng cao trình độ quản lý, trình
độ kỹ thuật.
- Về
cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam, Ban
Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ phải khẩn trương kiểm tra, rút kinh
nghiệm, uốn nắn những lệch lạc, thực hiện đúng chủ trương của Đảng về năm
thành phần kinh tế ở miền Nam để tận dụng mọi khả năng về lao động,
kỹ thuật, quản lý nhằm phát triển sản xuất. Trong các ngành công nghiệp, nhất
là trong công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng, thành phần kinh tế quốc doanh
phải giữ vai trò chủ đạo, nhưng vẫn để cho một số tư sản dân tộc hoạt động dưới
sự quản lý của Nhà nước.
2. Giải
quyết những yêu cầu cấp bách về đời sống
Phải
khẩn trương giải quyết các vấn đề cấp bách về đời sống ở các thành phố, khu công
nghiệp tập trung, ở các vùng biên giới phía bắc, ở một số vùng nông thôn mùa
màng có khó khăn. ở các
thành phố lớn và khu công nghiệp, phải cố gắng bảo đảm lương thực,
thực phẩm và các hàng tiêu dùng thiết yếu theo tiêu chuẩn quy định và
đúng kỳ hạn. Ngoài số lương thực phân phối thường xuyên, Bộ Lương thực và Thực
phẩm phải bảo đảm cho Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có lương
thực dự trữ.
Các
Bộ Hải sản, Nội thương, Lương thực và Thực phẩm, Giao thông Vận tải phải bảo
đảm cung cấp thực phẩm như rau, cá, nước mắm hoặc nước chấm, xà phòng, giấy
viết, theo tiêu chuẩn quy định cho công nhân, viên chức và nhân dân tại Thủ đô
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các khu công nghiệp khác. Phải kiên quyết dành
một lực lượng vận tải để đưa cá, nước mắm và một số hàng tiêu dùng từ miền Nam
ra cho Thủ đô Hà Nội, các khu công nghiệp và vùng biên giới phía bắc.
Trong việc phân phối, ngoài tiêu chuẩn cung cấp theo định lượng,
ngành thương nghiệp được phép bán theo giá cao hơn giá bán cung cấp một số mặt
hàng lương thực, nông sản và hàng công nghiệp đã mua của người sản xuất theo
giá thoả thuận. Ngoài hệ thống cửa hàng của thương nghiệp quốc doanh, cần tổ
chức tốt hệ thống căng tin của các cơ quan, xí nghiệp, bảo đảm đưa hàng hoá đến
tay người tiêu dùng. Kết hợp các biện pháp kinh tế với các biện pháp hành
chính, giáo dục để quản lý thị trường; kiên quyết trừng trị bọn phá hoại, đầu
cơ nâng giá.
Tổ chức bữa ăn giữa ca không phải trả tiền cho công nhân ở các xí
nghiệp, công trường và bến cảng lớn, chú trọng những nơi làm việc nặng nhọc.
Trong khi chuẩn bị cải tiến chế độ tiền lương, Chính phủ cần ban
hành khoản trợ cấp đặc biệt cho những người có mức lương thấp để giảm bớt khó
khăn trong đời sống. Đồng thời, áp dụng rộng rãi ở các ngành, các địa phương
chế độ trả lương theo sản phẩm và chế độ trả lương khoán theo hiệu quả thực tế
của sản xuất, kinh doanh, để khuyến khích các đơn vị, cá nhân làm tốt và tăng
thu nhập của công nhân, cán bộ.
Bộ
Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Uỷ ban nhân dân các cấp phải bảo
đảm trả lương đủ và đúng kỳ hạn cho cán bộ, công nhân, viên chức.
Các ngành và các tỉnh miền Nam phải tích cực giáo dục, giúp đỡ và
mạnh dạn giao việc cho công nhân, viên chức, trí thức mới giải phóng; nghiêm
cấm mọi thái độ thành kiến, phân biệt đối xử. Phải tiếp tục tuyển vào biên chế
những người hiện đang làm theo chế độ hợp đồng, tạm tuyển; đối với những người
có nghề giỏi, cần áp dụng chế độ phụ cấp kỹ thuật thích đáng.
3. Cải
tiến các chính sách lưu thông, phân phối (giá, lương, tiền tài chính, ngân
hàng)
Phải nghiên cứu để cải tiến một cách cơ bản các chính sách lưu
thông, phân phối, khắc phục tình trạng không ăn khớp hiện nay giữa chính sách
và tình hình thực tế về sản xuất và đời sống, chống tư tưởng chủ quan, bảo thủ,
không nhìn thấy những thiếu sót trong chính sách; đồng thời phải nghiên cứu kỹ
các mặt khi xác định những chính sách mới để tránh sai sót.
Các chính sách về lưu thông, phân phối phải nhằm thúc đẩy sản xuất
phát triển mạnh theo đường lối của Đảng và phương hướng của kế hoạch Nhà nước,
kết hợp lợi ích của toàn xã hội với lợi ích của tập thể và cá nhân, khuyến
khích người lao động hăng hái sản xuất, làm nhiều được hưởng nhiều, đồng thời
bảo đảm cho Nhà nước nắm được nguồn hàng, làm chủ được thị trường.
Tiêu
chuẩn cao nhất để đánh giá sự đúng đắn của các chính sách lưu thông, phân phối
là tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống
nhân dân.
Từ nay đến cuối năm 1979, Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính
phủ cần tập trung nghiên cứu và ban hành một số chính sách khuyến khích phát
triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp địa phương, công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng; thu mua và phân phối lương thực, thực phẩm và các nông sản
quan trọng. Còn toàn bộ vấn đề giá cả, tiền lương, tiền tệ, tài chính, ngân
hàng, Bộ Chính trị sẽ lập những tiểu ban nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện
và giải quyết vào đầu năm 1980.
4. Tích
cực chuẩn bị, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc
Tiếp
tục thực hiện tốt các nghị quyết của Trung ương về việc xây dựng lực lượng vũ
trang, tăng cường các công tác ở biên giới, hải đảo. Ban Bí thư, Thường vụ Hội
đồng Chính phủ và Quân uỷ Trung ương cùng với các tỉnh uỷ, thành uỷ phải kiểm
tra chặt chẽ và thường xuyên các công tác cấp bách về chuẩn bị sẵn
sàng chiến đấu và bảo vệ nhân dân, bảo đảm luôn luôn chủ động và sẵn sàng đập
tan các cuộc tiến công xâm lược của địch.
Đẩy
mạnh việc thực hiện cuộc vận động "Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức
mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang" trong toàn quân, ở tất cả các
địa phương, các đơn vị tăng cường đoàn kết quân dân, nâng cao cảnh
giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tốt bảo vệ Tổ quốc.
Triển khai việc thi hành chế độ nghĩa vụ quân sự đối
với mọi công dân đến tuổi nghĩa vụ; người nào không đủ điều kiện vào quân đội
thì thực hiện chế độ nghĩa vụ lao động đưa đi xây dựng các vùng kinh tế mới
trong một thời hạn nhất định.
Các
cấp ủy Đảng và chính quyền phải chỉ đạo chặt chẽ công tác quốc phòng và an
ninh, tăng cường các biện pháp chuyên môn kết hợp với phát động phong trào quần
chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, kịp thời phát hiện âm mưu và hoạt động của bọn
phản động, gián điệp, bọn gây bạo loạn, truy quét bọn thổ phỉ, tập trung cải
tạo bọn lưu manh chuyên nghiệp, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội.
5. Phát
động phong trào cách mạng của quần chúng, kiên quyết khắc phục những hiện tượng
tiêu cực trong xã hội
Tất
cả các ngành và các địa phương phải căn cứ vào nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã
hội của mình mà phát động phong trào cách mạng của quần chúng sôi nổi, liên
tục, nhằm đẩy mạnh sản xuất, tổ chức tốt đời sống, phát huy những nhân tố tích
cực, đồng thời kiên quyết đấu tranh khắc phục những hiện tượng tiêu
cực, nhất là tệ ăn cắp, hối lộ, ức hiếp quần chúng.
Phải
phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ tập thể của quần chúng, nhất
là của công nhân, viên chức và nông dân lao động, làm cho quần chúng tự giác,
chủ động thực hiện trách nhiệm và quyền hạn của mình cùng với cơ quan Nhà nước
đấu tranh mạnh mẽ chống tệ lấy cắp của công, hối lộ và ức hiếp quần chúng,
trước hết là trong những ngành trọng điểm, ở những khâu trọng điểm như lương
thực, thương nghiệp, giao thông vận tải (kể cả hàng không dân dụng), vật tư,
quản lý nhà đất, hộ khẩu.
Người
đứng đầu mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi đơn vị phải chịu trách nhiệm bảo vệ chu đáo
những tài sản mà Nhà nước giao cho mình quản lý, chấn chỉnh gấp việc tổ chức
quản lý tài sản, kho tàng, cửa hàng,... tổ chức kiểm tra thường xuyên và kiểm
tra đột xuất để phát hiện những vụ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, thưởng
phạt nghiêm minh và kịp thời.
Cần công bố lại trên báo, đài và phổ biến rộng khắp các Pháp lệnh
về bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản của công dân, trừng trị các
hành động phản cách mạng, chọn ngay một số vụ ăn cắp của công nghiêm trọng đưa
ra xử công khai, trừng trị đích đáng và thông báo rộng rãi trong nhân dân.
Phải
vừa chống tệ ăn cắp, hối lộ và ức hiếp quần chúng, vừa xây dựng và
thực hiện đúng các chế độ, thể lệ quản lý, kết hợp thực hiệnbốn
chế độ (chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật, chế độ bảo vệ của công,
chế độ phục vụ nhân dân) trong mỗi cơ quan, đơn vị sản xuất, xây dựng và kinh
doanh, vận tải, khôi phục và phát huy nền nếp lành mạnh, tốt đẹp trong lao
động, quản lý kinh tế và tổ chức đời sống.
Các đoàn thể Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, các tổ chức
nông dân tập thể phải phát huy chức năng và tác dụng quan trọng của mình trong
việc giáo dục chính trị và phát động phong trào quần chúng, xây dựng và bồi
dưỡng các nhân tố tích cực, các điển hình tiên tiến, phê phán và đẩy lùi các
hiện tượng tiêu cực. Phải đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các
đoàn thể, bám sát các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, bám sát cơ sở, giải đáp trúng
yêu cầu của tình hình và nguyện vọng của quần chúng, đem lại hiệu quả thiết
thực.
Ban
Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ phải phân công một số đồng chí chuyên
trách để chỉ đạo ráo riết công tác này.
6. Tăng
cường công tác tư tưởng
Ban
Bí thư Trung ương Đảng và các cấp uỷ Đảng ở các cấp, các ngành phải chỉ
đạo công tác tư tưởng, giáo dục chính trị một cách sắc bén,
kịp thời, làm cho cán bộ và nhân dân nhận rõ tình hình, hiểu đúng và làm đúng
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Công tác giáo dục chính trị phải
bám sát tình hình và nhiệm vụ các mặt, kinh tế và xã hội, quốc phòng và an
ninh, giải đáp trúng những thắc mắc và tâm tư của quần chúng.
Trong việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
này, ở tất cả các cấp, các ngành, các đơn vị cơ sở, phải truyền đạt
cho được quan điểm và quyết tâm của Trung ương, nhất là về các vấn đề
kinh tế, xã hội. Tiến hành một đợt công tác chính trị, tư tưởng mạnh mẽ trong
Đảng và trong quần chúng, nhằm làm cho mọi người:
- Thấy hết những thắng lợi rất to lớn của cách mạng Việt Nam trong
bốn năm qua, hiểu rõ những khó khăn không thể tránh khỏi trong hoàn cảnh vừa
bảo vệ Tổ quốc..., vừa bảo đảm đời sống và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội; đồng thời, cũng thấy rõ những khuyết điểm chủ quan trong
việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
-
Nêu cao ý chí cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, quyết tâm vượt mọi khó khăn
trước mắt, tin tưởng và phấn khởi tiến lên, uốn nắn những nhận thức lệch lạc,
khắc phục tư tưởng bi quan, hoài nghi, dao động, kịp thời đập tan những luận
điệu chia rẽ, xuyên tạc, kích động của địch.
Đối
với cán bộ, đảng viên, phải nêu cao tư thế của người chiến sĩ cộng sản, biết
phân rõ phải, trái, đúng, sai, nắm vững mục tiêu cách mạng, tiền phong gương
mẫu trong cuộc chiến đấu mới hiện nay, xác định rõ trách nhiệm của mình trong
việc góp phần làm chuyển biến tình hình.
Các
cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ở mỗi cấp, mỗi ngành, phải rất chủ động
và sắc bén trong việc chỉ đạo công tác tư tưởng và các cơ quan tuyên truyền
giáo dục nhanh chóng tạo ra một sự chuyển biến về tư tưởng, quyết tâm thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu của Trung ương.
Đi đôi với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phải tích cực chỉ
đạo thực hiện Chỉ thị 72 của Ban Bí thư về xây dựng Đảng, kiên quyết đưa ra
khỏi Đảng và bộ máy Nhà nước những phần tử thoái hoá, biến chất, xử lý kịp thời
và nghiêm minh các vụ vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
7. Chấn
chỉnh công tác tổ chức và chỉ đạo thực hiện
Để
thực hiện các nhiệm vụ cấp bách kể trên, nhất thiết phải chấn chỉnh công tác tổ
chức và cán bộ, thực sự đổi mới cách chỉ đạo thực hiện ở các ngành, các cấp.
Ngay
sau Hội nghị Trung ương lần này, Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ
phải định ra một chương trình hành động tích cực, xác định những việc phải làm,
ai làm và thời gian hoàn thành. Đối với những công tác cấp bách trước mắt, phải
kiểm tra, đôn đốc ráo riết; sau mỗi lần kiểm tra, Ban Bí thư và Thường vụ Hội
đồng Chính phủ phải có kết luận và có biện pháp giải quyết cụ thể.
Các
bộ, các ngành, các địa phương, trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình,
cũng phải lập chương trình hành động và có kế hoạch cụ thể thực hiện các nhiệm
vụ cấp bách. Những việc thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của mình thì làm ngay,
không chờ đợi, không chần chừ.
Kiên
quyết chấn chỉnh bộ máy chỉ đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước từ trung ương
đến địa phương và cơ sở, trước hết là cải tiến cách làm việc của Ban
Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ, sắp xếp lại bộ máy và kiện
toàn cơ quan lãnh đạo một số ngành quan trọng.
Các ngành, các cấp phải làm tốt công tác cán bộ theo Nghị quyết
225 của Bộ Chính trị, chú trọng đổi mới đội ngũ cán bộ thật sự có phẩm chất và
năng lực. Tăng cường cán bộ cho cấp huyện và cơ sở, kiên
quyết giảm mạnh biên chế các cơ quan hành chính cấp trung ương và cấp tỉnh,
thành.
Xây dựng và kiện toàn cấp huyện là một khâu mấu chốt trong việc xây dựng cơ cấu kinh tế nông
- công nghiệp, phát triển sản xuất nông nghiệp, đưa nông nghiệp tiến lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Tất cả các ngành trung ương, các tỉnh uỷ, huyện uỷ
phải đặt đúng vấn đề xây dựng huyện và kiện toàn cấp huyện, tích cực và khẩn
trương thi hành các nghị quyết của Trung ương và Chính phủ về xây dựng huyện,
gắn với củng cố cơ sở, củng cố các hợp tác xã, đẩy mạnh sản xuất, chăm lo đời
sống nhân dân và đóng góp với Nhà nước.
Về chế độ làm việc, phải xác định rõ ràng, dứt khoát trách nhiệm,
quyền hạn của Bộ trưởng và quan hệ giữa các bộ với Thường vụ Hội đồng Chính
phủ. Hội đồng Chính phủ và các ngành ở trung ương phải xúc tiến nhanh việc phân
cấp quản lý cho các địa phương, phân rõ trách nhiệm giữa trung ương, tỉnh và
huyện trong công tác quản lý và kế hoạch hoá.
Bài tham khảo 2:
* Sau ngày 30/4/1975, vấn đề thống nhất
về mặt nhà nước lại được đặt ra một cách cấp bách là vì:
Sau
chiến thắng lịch sử 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng song về mặt lãnh
thổ, trên mỗi miền có một hình thức tổ chức nhà nước khác nhau. Ở miền Bắc, Quốc
hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ở miền
Nam có Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn
của Chính phủ. Từ thực tế đó, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(tháng 7/1975) nhấn mạnh: “Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng thiết tha của
nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt
Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam”.. Thống nhất lãnh thổ, thống nhất nhà nước
là yêu cầu khách quan bức thiết, sẽ tạo ra sức mạnh mới, động lực mới để phát
triển kinh tế, xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Xuất phát từ ý nghĩa đó, tiến hành thống nhất nhà nước
càng sớm thì càng phát huy nhanh chóng sức mạnh toàn diện của đất nước.
* Chủ trương và biện pháp của Đảng ta
trong việc thống nhất về mặt nhà nước lại được đặt ra một cách cấp bách là:
-
Để thực hiện thống nhất đất nước, từ ngày 15 đến ngày 21/11/1975, Hội nghị hiệp
thương chính trị thống nhất đất nước được tổ chức tại Sài Gòn. Hội nghị khẳng định
khâu then chốt để thống nhất Tổ quốc là thực hiện sự thống nhất nước nhà về mặt
nhà nước. Đó là điều kiện cơ bản để đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hội
nghị nhấn mạnh: “Cần tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử trên toàn bộ lãnh thổ Việt
Nam để bầu ra Quốc hội chung cho cả nước. Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
của nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và chủ nghĩa xã hội, Quốc hội đó sẽ xác định
thể chế Nhà nước, bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và quy định Hiến
pháp mới của nước Việt Nam thống nhất”. Hội nghị đã thảo luận và nhất trí hoàn
toàn mọi vấn đề thuộc về chủ trương, bước đi, biện pháp nhằm thống nhất về mặt
nhà nước. Hội nghị quyết định cần tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử trên toàn bộ
lãnh thổ Việt Nam để bầu ra Quốc hội chung của cả nước và xác định cuộc Tổng
tuyển cử sẽ được tiến hành vào đầu năm 1976, theo các nguyên tắc dân chủ là phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
-
Thành công của Hội nghị Hiệp thương chính trị là một thắng lợi lớn trên con đường
tiến tới hoàn thành thống nhất đất nước. Hội nghị không chỉ đạt được sự nhất
trí cao về chủ trương, phương hướng mà còn đề ra được những biện pháp cụ thể để
thực hiện nguyện vọng tha thiết của toàn thể nhân dân ở cả hai miền Nam - Bắc
là sớm thành lập một nhà nước chung, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc,
xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương, nghị quyết của Hội nghị được triển khai khẩn trương nhưng theo từng
bước cụ thể ngay sau khi Hội nghị kết thúc.
-
Ngày 25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước được tiến
hành. Nguyện vọng tha thiết trước sau như một của nhân dân ta là nước nhà độc lập,
thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội đã thành hiện thực. Nhân dân ta bước
vào cuộc Tổng tuyển cử với tinh thần phấn khởi, tự hào trước thắng lợi huy
hoàng đã giành được, với lòng tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
Lao động Việt Nam và tiền đồ vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, cuộc Tổng tuyển
cử bầu ra Quốc hội khóa VI đã thành công rực rỡ với trên 23 triệu cử tri đi bầu
với tư thế của người làm chủ đất nước. Tỷ lệ cử tri đi bầu trong cả nước đạt
98,77%, trong đó miền Bắc đạt 99,36%, miền Nam đạt 98,59%. Có nhiều xã, huyện,
thị, đơn vị vũ trang và khu vực bỏ phiếu đạt 100% cử tri đi bầu. Cử tri đã lựa
chọn và bầu đủ 492 đại biểu Quốc hội ngay trong vòng bầu cử đầu tiên.
-
Quốc hội khóa VI là biểu tượng của độc lập gắn liền với dân chủ, thống nhất về
lãnh thổ, về cơ cấu hành chính và Quốc hội. Quốc hội đã nhất trí thông qua các
nghị quyết về tên nước, quốc kỳ, quốc huy, thủ đô và quốc ca của nước Việt Nam
thống nhất: Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất, xã hội chủ nghĩa lấy tên
là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc kỳ nền đỏ, ở giữa có ngôi sao
vàng năm cánh; Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, ở giữa
có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng
cưa và dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; Thủ đô là Hà Nội; Quốc ca
là bài Tiến quân ca.
-
Cuộc Tổng tuyển cử và sự ra đời của Quốc hội khóa VI là một sự kiện chính trị
quan trọng, đánh dấu sự thành công quyết định của nhân dân ta trên con đường thống
nhất nước nhà về mặt nhà nước. Đây là thành quả vĩ đại của 45 năm nhân dân ta đấu
tranh cách mạng không ngừng kể từ khi Đảng ra đời, là thắng lợi của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, thắng lợi của cuộc kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đó
còn là thắng lợi khẳng định tính đúng đắn của con đường giải phóng dân tộc, ý
chí sắt đá thống nhất non sông như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Nước Việt
Nam là một, dân tộc Việt Nam ta là một. Dù cho sông cạn đá mòn, Nhân dân Nam, Bắc
là con một nhà.
-
Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước là yêu cầu tất yếu khách quan của
sự phát triển cách mạng Việt Nam. Với thắng lợi đạt được đã thể hiện tinh thần
yêu nước, đoàn kết toàn dân tộc, ý chí thống nhất Tổ quốc, quyết tâm xây dựng một
nước Việt Nam độc lập và thống nhất của toàn thể nhân dân ta. Thống nhất đất nước
đã tạo điều kiện để tiếp tục hoàn thành thống nhất các lĩnh vực chính trị, tư
tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng
xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước; tạo điều kiện chính trị cơ bản để phát
huy sức mạnh toàn diện đất nước, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo
ra khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước trên thế
giới, đặc biệt là tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho quá trình phát triển tiếp
theo của dân tộc Việt Nam.